Home » Di Tích
Cây đèn 'vùng biển chết'

Khi
đưa tôi vượt qua eo biển sóng để lên đảo đá Kê Gà, anh Huy Khánh, Giám
đốc Công ty Bảo đảm Hàng hải khoe rằng, đây là cây đèn biển vào loại cổ
nhất, cao nhất và đẹp nhất nước.
Cổ
nhất ắt khỏi nói rồi; còn cao nhất, 65m tính từ mặt biển tới tâm đèn,
hẳn cũng chưa có gì là ghê; nhưng nói đẹp nhất thì anh khẳng định, đây
là tháp đèn có một không hai, được xây bằng đá hoa cương, mà mỗi viên đá
đều có một bản vẽ kỹ thuật riêng. Công việc thiết kế kỹ đến mức, hàng
trăm tảng đá lớn nhỏ khác nhau được kiến trúc sư người Pháp, Snavat mang
từ Pa-ri sang, cứ theo bản vẽ mà chồng cao dần
lên khít khìn khịt, theo hình bát giác. Nhìn xa ngỡ thân tháp hình trụ,
càng lên cao càng nhỏ, được lắp ghép cao tới 41,5m và để gắn kết giữa
các phiến đá bằng chất liệu gì đến hiện giờ vẫn còn là điều bí ẩn.
Khi
bước lên cầu thang xoáy trong lòng tháp đèn, anh Khánh còn dặn tôi nhớ
đến bậc thứ 183 hãy chụp ảnh xuống thì mới thấy cái độ xoáy chóng mặt
của chiều cao và tất nhiên anh còn nói cho hay rằng, chắc chắn bức ảnh
ấy sẽ đẹp mê hồn vì sự sống động của nét bay bổng trong một không gian
hẹp. Theo lời anh, đến đúng bậc 183, tôi ngẩn
người nhìn xuống và nhận ra rằng, ông giám đốc này thật gắn bó với nơi
đây và rất yêu công việc của mình. Lẽ dĩ nhiên, tôi thở dốc mặc dù đã
phải dừng chân ở hai chiếu nghỉ, anh Huy Khánh cũng vã mồ hôi, chỉ có
anh Nguyễn Văn Sáu, đội trưởng ở đây mới còn sức nhoẻn cười. Nhìn khuôn
mặt khắc khổ của anh Sáu mà tôi cảm phục, bởi tính ra anh đã xa quê Bình
Định và theo đuổi công việc này, nay đây mai đó, đã tròn 30 năm. Vậy
đó, tôi nghe kể hằng ngày, anh cũng như mọi nhân viên của trạm, phải lên, xuống tháp 4 lần để làm việc. Không chóng mặt mới lạ.
Cùng
nhau đứng trên tầng cao nhất để kiểm tra đèn biển, anh Sáu báo cáo luôn
công việc trong cả một mùa đèn bị sét đánh với giám đốc của mình. Câu
chuyện mọi người đã phải chạy trốn để tránh sét trong đêm mưa dông như
thế nào, mới hay những người gác đèn biển ở đây mùa nào “thức nấy” đều
ngay ngáy lo toan đến tính mạng. Ăn cùng sét, ngủ cùng sét và uống cùng
sét. Ấy là mùa mưa. Nhưng ngược lại đến mùa khô, lại kiệt nước mưa cùng
với cái nắng cháy đến bong da cùng biển mặn. Riêng vào mùa bão, đội
trưởng Sáu kể, cứ đúng giờ, mưa mặc mưa, gió mặc gió, anh em vẫn phải
trầm mình trong bão tố để bật sáng ngọn đèn cho biển cả. Mắt biển mà. Đã
trăm năm không ngủ. Tất cả hướng ra biển khơi. Những chớp sáng loé lên
xuyên màn đêm và mây mù, chiếu xa tới 40km, trở thành những tín hiệu
trong lành của con người. Gương mặt khắc khổ, dạn dĩ của anh Sáu luôn
luôn đỏ au vì hơi biển. Đôi mắt anh không bao giờ tỏ ra mỏi mệt trong
những đêm thức cùng biển cả.
Lúc
này, trong luồng gió cuồn cuộn từ biển thổi lồng lộng, những ngọn sóng
vỗ ào ạt liên hồi vào đảo đá, tôi bỗng nghe thấy từ đâu đó tiếng còi tàu
rúc lên như một lời chào, như một lời tri ân hẹn hò, tìm bạn. Khoảng
gần một giờ đồng hồ kiểm tra và trao đổi công việc, anh Huy Khánh còn
cho xác định lại những thông số kỹ thuật chuẩn của ngọn đèn, để lập một
biểu đồ đưa lên website. Tôi bấm vội vài kiểu ảnh
rồi hẹn mail cho anh kịp đưa vào bản tin của website. Nhưng đột nhiên
tôi quay lại hỏi anh Sáu:
- Vì sao phải dựng cây đèn biển ở đây hả anh?
Không cần nghĩ ngợi anh chỉ tay cho tôi nhìn về phía biển rồi nói:
-
Nếu có ống nhòm, anh có thể nhìn thấy một thùng phao cách đèn biển này
khoảng 4 dặm. Ở đó chúng tôi đánh dấu một “vùng biển chết”. Trên phao
cũng có một ngọn đèn thắp sáng suốt ngày đêm.
- Vùng biển chết?!
Tôi
chợt thốt lên vì ngạc nhiên thì anh Huy Khánh cho hay, đó là nơi có
sóng xoáy ngầm rất lớn. Nhìn bề mặt biển phẳng lặng chỉ có người đi biển
có kinh nghiệm mới nhận biết được để tránh nguy hiểm. Nhưng thường
trong những lúc thời tiết xấu, tàu thuyền qua lại không thể phát hiện
nếu không căn cứ toạ độ của cây đèn biển Kê Gà luôn luôn phát sáng trong
đêm tối. Từ xưa tới nay hàng trăm vụ đắm tàu thuyền đã xảy ra tại vùng
biển chết này. Những cuộc khảo sát cùng với những thống kê hàng hải
trong hàng trăm năm qua mới thấy việc dựng ngọn hải đăng tại mũi Kê Gà
này là quan trọng biết chừng nào. Trong đêm, căn cứ vào toạ độ ngọn đèn,
các tàu thuyền xác định được mình đang ở vị trí nào, phải đi về hướng
nào để tránh nguy hiểm, tránh vùng biển chết và đá ngầm.
Tháng
tám, mưa bất chợt, sóng biển động vì vẫn còn bị ảnh hưởng một cơn bão
xa. Cả ba chúng tôi vội vàng đi xuống vì anh Sáu đã hoàn thành tất cả
những công việc trong ca trực của mình. Lấp ló phía xa, những tia nắng
nhỏ nhoi khuất dần sau đám mây dày đặc. Cả hai giục tôi xuống nhanh bởi
nếu không chỉ trong khoảng khắc nào đó những tia sét lại xối xả bắn tỉa
vào cột thu lôi trên đỉnh tháp. Khi đó chúng tôi không ra tro thì cũng
bị tiếng sét dữ tợn quật ngã trên sàn như những con cá trên biển vậy.
Xuống dưới chân tháp chúng tôi mới thở phào nhẹ người, thấy tôi vẫn còn thở gấp, đội trưởng Sáu cười và nói an ủi:
- Nhà báo thế còn khỏe đó. Chúng tôi phải lên xuống hàng ngày còn thấy mệt nữa là.
Tôi
cố gắng nhếch mép cười để xoá tan đi sự căng thẳng. Anh đội trưởng vừa
mở cửa tháp định đi ra thì một làn mưa xối thẳng vào rát mặt. Lát sau,
cả ba chúng tôi cùng quay ra ngôi miếu phía sau tháp để thắp hương cho
những người đã ngã xuống vì ngọn tháp này. Theo như anh Sáu kể thì đây
là ngôi miếu thờ hơn 80 người đã bị tai nạn trong hai năm xây dựng tháp
từ tháng 2-1897 đến cuối năm 1898. Theo thông lệ cứ vào ngày rằm hoặc
đầu tháng là anh em trong trạm đến thắp hương cho những người quá cố.
Vậy mà đã hơn 110 năm, những con người đã ngã xuống để thắp ngọn đèn
biển chiếu sáng hàng đêm để cảnh báo và cứu sống con người. Họ đã chết
đi cho những người sống mãi trên biển khơi này. Giờ đây anh Sáu cùng
đồng đội tiếp sức sống cho mặt biển. Đó là những cái tên Huỳnh Kim
Trung, Đậu Văn Côi, Lương Hữu Phúc, Nguyễn Thanh Chương và Đinh Quang
Tám, những người đã gắn bó với nhau cả chục năm qua trên đảo đèn.

Tác giả (giữa) chụp ảnh kỷ niệm cùng đội đèn biển Kê Gà
Qua
ngọ. Trời ngớt mưa, mây vẫn còn u ám. Nhìn hàng cây sứ già cỗi, dễ cũng
đến trăm năm tồn tại xanh tốt cùng gió biển, lòng tôi thấy nôn nao vì
sự tồn tại bền bỉ của cuộc sống với thời gian. Anh Sáu khoát tay chỉ về
phía hàng cây là một sân bóng chuyền rồi kể rằng, ở cạnh đó anh em trong
trạm sẽ đào và xây một ao nuôi cá nước ngọt. Thật là một ý nghĩ lãng
mạn. Mà không phải là ý nghĩ nữa. Họ đã làm và đang kè lại và mong trời
mưa tràn đầy cái ao nhỏ bé trên cái đảo đá cô quạnh này. Đây đó là một
chậu cây tạo dáng con ngựa, tạo dáng con rồng... Tất cả đều toát lên
những giấc mơ bay cao trong hòn đảo không có người, trên toạ độ của vùng biển chết này.
Mới
đây, theo như anh Huy Khánh kể lại, gần 100 thành viên của Vina Game đã
tổ chức một cuộc thi bơi từ đất liền ra đảo Kê Gà để đáp lại sự thách
thức của biển cả và để chia sẻ với cuộc sống quanh năm khó khăn của
những người gác đèn biển. Đó là những bạn trẻ đến từ Mỹ, Hàn Quốc,
Philippines, Trung Quốc cùng với các thành viên Việt Nam bơi vượt sóng
biển hàng trăm mét để được đến bên chân đèn biển. Thật là một trò chơi
gay go và hấp dẫn biết bao. Nhắc lại cuộc đua thú vị này, anh Sáu xởi
lởi nói:
- Họ thật lạc quan khi vui chơi bên toạ độ này. Họ cùng với chúng tôi thách thức với biển cả. Thật đã quá ! Ha !
Đúng
vậy để đến với ngọn đèn hơn trăm năm toả rạng, các bạn trẻ tràn qua cồn
cát trắng mịn của Bãi Môn, để vượt biển. Anh Sáu hào hứng nhắc lại câu
chuyện rồi nắm tay tôi dặn dò:
-
Vậy nhé! Hẹn gặp lại một ngày nào đó trở lại với chúng tôi ở cái toạ độ
biển chết này. Và xin nhớ, nơi đây có một con mắt biển trăm năm, toả
sáng xuyên hai thế kỷ...
Tôi chia tay mọi người, rồi vội ghi lại địa chỉ chi tiết của Trạm hải đăng Kê Gà: xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam,
tỉnh Bình Thuận. Nét chữ tôi run rẩy, bởi trong lòng xốn xang với con
mắt biển, và mong có một ngày sẽ quay về với đảo đèn ngập tràn sóng gió
này.
Kỷ lục Bình Thuận: Đầu rồng thanh long trên 100 tuổi
Đầu của con rồng màu xanh (thanh long) rồng trong lễ hội Nghinh Ông
của thành phố Phan Thiết đến nay đã trên 100 tuổi! Câu chuyện trên có vẻ
khó tin song đó là sự thực!
Đọc Tiếp...…
Theo
ông Tô Bữu Đạt - trưởng ban Quan Đế Miếu (Phan Thiết) cho hay, những
năm cuối thế kỷ 17, người Hoa đến Bình Thuận định cư. Sau khi ổn định
cuộc sống, họ bắt đầu xây dựng chùa, miếu, hội quán… thiết lập tín
ngưỡng, duy trì văn hóa. Các hội quán: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc
Kiến, Hải Nam… là nơi thờ tổ tiên, cũng là nơi nương tựa về mặt tinh
thần của người Hoa những ngày đầu sang Việt Nam. Năm 1778, Quan Đế Miếu
(nay chùa Ông) được xây dựng.
Sau khi xây Quan Đế Miếu xong, lễ hội Nghinh Ông hình thành, đáo lệ 2 năm 1 lần, vào tháng 7 của năm chẵn. Theo tín ngưỡng có lễ hội thì phải có rồng, biểu tượng cho sự may mắn, bình an… Rồng thanh long màu xanh lá cây dài 49 mét làm bằng mây và tre, gồm 1 đầu, 15 sườn bụng, 3 sườn đuôi. Đầu rồng to và trái châu hình quả cầu được làm bằng mây, bởi mây vừa cứng bền vừa dẻo.
Tổng cân nặng đầu rồng là 60kg. Đầu rồng và trái châu hiện nay là đầu rồng của ngày xưa để lại, đã trên 100 tuổi. Mỗi lần đến hội Nghinh Ông, những người trong đội múa rồng thường mang đầu rồng ra sơn phết lại, hoặc bọc vải mới nhưng khung đầu rồng thì vẫn giữ nguyên. Bình thường rồng được tháo ra thành nhiều bộ phận rời. Khi chuẩn bị múa, thì mất 2 ngày lắp ráp rồng.
Để thực hiện chương trình múa rồng cần 150 người, có 120 vũ công múa luân phiên, số người còn lại biểu diễn cờ, trống, nhạc cụ
Sau khi xây Quan Đế Miếu xong, lễ hội Nghinh Ông hình thành, đáo lệ 2 năm 1 lần, vào tháng 7 của năm chẵn. Theo tín ngưỡng có lễ hội thì phải có rồng, biểu tượng cho sự may mắn, bình an… Rồng thanh long màu xanh lá cây dài 49 mét làm bằng mây và tre, gồm 1 đầu, 15 sườn bụng, 3 sườn đuôi. Đầu rồng to và trái châu hình quả cầu được làm bằng mây, bởi mây vừa cứng bền vừa dẻo.
Tổng cân nặng đầu rồng là 60kg. Đầu rồng và trái châu hiện nay là đầu rồng của ngày xưa để lại, đã trên 100 tuổi. Mỗi lần đến hội Nghinh Ông, những người trong đội múa rồng thường mang đầu rồng ra sơn phết lại, hoặc bọc vải mới nhưng khung đầu rồng thì vẫn giữ nguyên. Bình thường rồng được tháo ra thành nhiều bộ phận rời. Khi chuẩn bị múa, thì mất 2 ngày lắp ráp rồng.
Để thực hiện chương trình múa rồng cần 150 người, có 120 vũ công múa luân phiên, số người còn lại biểu diễn cờ, trống, nhạc cụ
Trường Dục Thanh - Nơi Bác Hồ đã dừng chân dạy học tại Phan Thiết
Trường Dục Thanh xây dựng năm 1907 (cùng năm
xây dựng với trường Đông Kinh Nghĩa Thục) tạo lạc trên địa bàn làng
Thành Đức nay là số 39 đường Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa, TP. Phan Thiết
để hưởng ứng phong trào Duy Tân do cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp và
Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng. Trường do các cụ Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn
Quý Anh (hai người con của nhà văn nhà thơ Nguyễn Thông) thành lập. Mục
tiêu của phong trào Duy Tân và của trường là mở mang dân trí, thức dậy ý
thức dân tộc, nòi giống . Đây là trường tư thục có nội dung giảng dạy
tiến bộ nhất ở Bình Thuận lúc bấy giờ.
Đọc Tiếp...…
Năm
1910 trên đường đi tìm phương cứu nước, thầy giáo Nguyễn tất Thành (
sau này là Hồ Chí Minh) được cụ Nghè Trương Gia Mô giới thiệu đã đến
Phan Thiết và dừng chân dạy học ở
trường Dục Thanh. Học sinh của trường có khoảng 60 người cùng 7 thầy
giáo giảng dạy các bộ môn : Hán Văn, Pháp văn, Thể dục thể thao…Thầy
Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy quốc ngữ, Hàn văn. Trong thời gian dạy
học ở trường Dục Thanh ngoài những nội dung được phân công giảng dạy,
thầy Thành còn bằng tình cảm người thầy, người anh đã
truyền bá lòng yêu quê hương đất nước, nòi giốngtổ tiên cho học sinh.
Những giờ học ngoại khoá, những lúc rảnh Thầy dẫn học sinh du ngoạn cảnh
đẹp như ở thị xã Phan Thiết lúc bấy giờ như bãi biển Thương Chánh, động
làng Thiềng, đình làng Đức Nghĩa.
Vào khoảng tháng 2/1911 Thầy Thành rời trường Dục Thanh và Phan Thiết vào Sài Gòn vượt đại dương đi tìm con đường giải phóng dân tộc. Một vài năm sau, ông Nguyễn Trọng Lội qua đời, ông Nguyễn Quý Anh chuyển vào Sài Gòn, không còn người phụ trách và nhiều lý do khách quan khác nên trường đóng cửa vào năm 1912.
Vào khoảng tháng 2/1911 Thầy Thành rời trường Dục Thanh và Phan Thiết vào Sài Gòn vượt đại dương đi tìm con đường giải phóng dân tộc. Một vài năm sau, ông Nguyễn Trọng Lội qua đời, ông Nguyễn Quý Anh chuyển vào Sài Gòn, không còn người phụ trách và nhiều lý do khách quan khác nên trường đóng cửa vào năm 1912.
Bình Thuận: Bảo tồn văn hoá của người Chăm
Sở Văn hoá-Thông tin tỉnh Bình Thuận đang
triển khai hai đề án "Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm -
Lịch sử và nghệ thuật" và "Phục dựng lễ hội Katê của người Chăm tại nhóm
đền tháp Pô Shanư".
Đọc Tiếp...…
Ngoài
hai đề tài nghiên cứu nói trên, Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh còn xúc tiến
việc xây dựng nhà trưng bày văn hóa dân tộc Chăm gắn với việc mở rộng
kho mở di sản văn hóa Hoàng tộc Chăm - PôKlông Mhơ Nai.
Vạn Thủy Tú - Bảo tàng lưu giữ di sản về văn hoá biển
Được xây dựng từ những năm trước và đến năm Nhâm Ngọ 1762 mới hoàn
thành, Vạn Thủy Tú được trùng tu liên tục qua nhiều thời kỳ khác nhau.
Ngày nay, Vạn Thủy Tú là một công trình kiến trúc rất có giá trị, được
nhân dân trân trọng, giữ gìn như một niềm tự hào của quê hương Phan
Thiết.
Đọc Tiếp...…
Cũng như những nơi thờ tự,
tín ngưỡng khác, Vạn Thủy Tú được khởi dựng do công sức đóng góp của dân
làng. Đây là công trình kiến trúc đồ sộ nhất của làng ngư xưa, được
chọn đặt ở thế đất tốt nhất và được các thế hệ nâng niu, gìn giữ.
Vạn Thủy Tú ngày nay tọa lạc trên đường Ngư Ông, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết. Vạn Thủy Tú được xem là vạn của các vạn, thủy tổ của nghề biển ở Phan Thiết và Bình Thuận. Đây là ngôi vạn cổ có niên đại sớm nhất và có diện tích tổng thể lớn nhất ở Bình Thuận. Xuất phát từ đây đã có nhiều ngôi vạn tách ra từ ngôi vạn này và một số làng ngư khác. Di tích này đã được Nhà nước xếp hạng Quốc gia năm 1996, là một trong 24 di tích Quốc gia tại Bình Thuận.
Nơi lưu giữ di sản văn hóa vật thể
Vạn Thủy Tú sử dụng lối kiến trúc dân gian. Toàn bộ các vì kèo, rường cột và hệ thống kết cấu gỗ ở đây đều được chọn các loại gỗ quý. Từ những cây cột lớn đến các cây kèo, trính, đòn tay, các chi tiết được lắp ghép trong ngôi vạn đều được trau chuốt, chạm khắc tỉ mỉ. Đến nay, so với hàng chục ngôi vạn thờ Hải Thần dọc bờ biển Bình Thuận thì ngôi vạn này có kiến trúc cổ còn giữ nguyên trạng.
Vạn còn chứa nhiều hiện vật quý hiếm cũng như các tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho nghệ thuật chạm gỗ, đúc đồng, nặn tượng do bàn tay khéo léo của các nghệ nhân thế kỷ XVIII tạo nên. Có thể kể đến các hiện vật như: chuông đồng, tượng đất nung, khám thờ, hương án, bao lam, thành vọng, hoành phi, liễn đối… có từ những thế kỷ trước, hàm chứa nhiều nội dung thông tin cần thiết cho nhiều ngành khoa học.
Điều đáng quan tâm là: Các lăng vạn ở vùng biển Bình Thuận đều có Sắc phong thần của các vua thuộc triều đình nhà Nguyễn. Ở Vạn Thủy Tú còn lưu giữ 24 sắc phong, lâu nhất là sắc phong đời vua Thiệu Trị (1841). Nội dung các sắc phong về thời điểm, địa danh làng vạn có khác nhau nhưng đều có chung một nội dung là: Phong cá Ông với các thần danh như: Đông Hải cự tộc ngọc lân tôn thần, Nam Hải Đại Nam Tướng Quân.
Trong đó có một bộ xương cá Voi xám, vừa được phục chế với sự giúp đỡ của Viện Hải dương học Nha Trang vào giữa năm 2003, có chiều dài 22 m, ước tính khi cá còn sống có trọng lượng khoảng 65 tấn. Cho đến nay, bộ xương này có niên đại sớm nhất, lớn nhất và duy nhất (do con người lưu giữ và bảo quản chứ không phải do khai quật khảo cổ học). Ngoài ra trong vạn còn lưu giữ hơn 100 bộ xương cốt cá voi và các loài cá lạ khác, không ít các bộ xương của những con rùa da khổng lồ. Đây là một lợi thế mà chúng ta cần tận dụng trong việc thu hút khách du lịch đến các làng biển.
Nơi lưu giữ di sản văn hóa phi vật thể
Ngoài các giá trị của kiến trúc cổ theo lối dân gian, ở di tích này còn chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa phi vật thể. Điều đáng nói ở đây là sau gần 250 năm, các loại hình văn hóa phi vật thể gần như còn nguyên vẹn với các yếu tố nguyên gốc. Vạn Thủy Tú, nơi đó còn lưu giữ lại những truyền thuyết về cá Thần mà ngư dân miền biển thường đồn đại. Cá Thần được ngư dân làm nghề biển gọi bằng nhiều tên khác nhau như: Ông Nam Hải, Ông Chuông, Ông Lộng, Ông Khơi… Người ta cho rằng, "Ông" do thần thánh nào đó hiện thân, hoặc vì cứu giúp thuyền bè nào đó ngoài khơi phải hy sinh để bảo vệ tính mạng cho loài người, hoặc do Ngọc Hoàng, Long Vương sai ghé vào bờ giúp đỡ dân làng bị hoạn nạn trên biển.
Ở các làng ngư ven biển Bình Thuận và một số nơi ở vùng biển Trung Bộ, còn có truyền thuyết về cá Voi như sau: "Xưa kia đức Phật Quan Âm trong tuần Du Đại Hải, ngậm ngùi đau xót cho số phận của người trần chết trận chìm ngoài biển khơi, nên xé chiếc áo cà sa làm muôn ngàn mảnh thả trên mặt biển làm phép thành cá Ông,
lấy bộ xương Voi ban cho để cá có thân hình to lớn, lại ban cho phép Thâu đường để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn…"
Trong nhận thức của ngư dân về sự tồn vinh và biết ơn cá Voi, từ một loài cá ngoài biển khơi, quá trình nhận thức và huyền thoại hóa đã diễn ra, để cá Voi trở thành vật thiêng. Những câu chuyện trên đây đều ít nhiều nhuốm màu truyền thuyết, huyền hoặc thể hiện niềm tin tưởng tuyệt đối của người dân chài vào loài vật có ích. Cá Voi, một sinh vật có ích đã được nhân cách hóa thành một đấng cứu độ nhân thế, một sinh vật hiền và thiêng giúp con người vượt ra khỏi tai nạn, vì thế được ngư dân miền biển biết ơn, tôn sùng không những lúc sống mà cả lúc chết.
Vạn Thủy Tú được mọi người biết đến không phải chỉ có những giá trị thuộc về kiến trúc và văn hóa nghệ thuật. Nó còn là ngôi nhà chung của cả cộng đồng ngư dân và nhân dân ở đây, là niềm tin thiêng liêng ăn sâu vào ký ức tâm linh của mọi người.
Để bảo vệ ngôi vạn và duy trì những nghi thức, luật lệ đã có ở Vạn, ngay từ thế kỷ trước đã có hương ước của làng và đến đầu thế kỷ này (qua tài liệu còn lưu giữ ở vạn) đã có nội quy phát triển từ hương ước của làng về kế tục tín ngưỡng, thời gian tổ chức lễ hội hàng năm, đến việc đóng góp, tu bổ… tinh thần tương thân, ái hữu doàn kết.
Tuy nhiên, trong nhiều yếu tố cơ bản cấu thành nội dung ở Vạn Thủy Tú, cái cốt lõi chính là văn hóa truyền thống, văn hóa dân gian ở vùng biển được hun đúc và cô đọng tại đây. Vấn đề đáng lưu ý hiện nay ở Vạn Thủy Tú là phải bảo quản, giữ gìn kiến trúc dân gian cũ. Vì đây là ngôi vạn còn sót lại khi xung quanh đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa nhanh dẫn đến hiện tượng những ngôi nhà cổ, những ngôi chùa, vạn bị hủy hoại hoặc đập phá đi để xây dựng cao to hơn, để rồi mất đi giá trị lịch sử, kiến trúc dân gian buổi đầu tạo dựng.
Sau nhiều lần nhân dân địa phương góp tiền của trùng tu, chắp vá không đồng bộ, từ năm 2003, UBND tỉnh đã có chủ trương cho ngành Văn hóa Thông tin tiến hành lập dự án trùng tu, tôn tạo di tích Vạn Thủy Tú để bảo tồn giá trị của di tích và phục vụ việc tham quan, nghiên cứu và du lịch. Đến nay, dự án đã hoàn thành với tổng giá trị trên 600 triệu đồng. Hiện đơn vị thi công đang phối hợp với nhân dân địa phương chuẩn bị cho việc trùng tu, tôn tạo. Dự kiến đến trước Tết nguyên đán, di tích Vạn Thủy Tú sẽ trùng tu xong, kịp để nhân dân địa phương thực hiện lễ nghi hàng năm và để cho du khách thăm viếng. Trước mắt là điểm tham quan du lịch phục vụ Lễ hội du lịch Bình Thuận- Hội tụ xanh được nhiều người quan tâm.
Vạn Thủy Tú ngày nay tọa lạc trên đường Ngư Ông, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết. Vạn Thủy Tú được xem là vạn của các vạn, thủy tổ của nghề biển ở Phan Thiết và Bình Thuận. Đây là ngôi vạn cổ có niên đại sớm nhất và có diện tích tổng thể lớn nhất ở Bình Thuận. Xuất phát từ đây đã có nhiều ngôi vạn tách ra từ ngôi vạn này và một số làng ngư khác. Di tích này đã được Nhà nước xếp hạng Quốc gia năm 1996, là một trong 24 di tích Quốc gia tại Bình Thuận.
Nơi lưu giữ di sản văn hóa vật thể
Vạn Thủy Tú sử dụng lối kiến trúc dân gian. Toàn bộ các vì kèo, rường cột và hệ thống kết cấu gỗ ở đây đều được chọn các loại gỗ quý. Từ những cây cột lớn đến các cây kèo, trính, đòn tay, các chi tiết được lắp ghép trong ngôi vạn đều được trau chuốt, chạm khắc tỉ mỉ. Đến nay, so với hàng chục ngôi vạn thờ Hải Thần dọc bờ biển Bình Thuận thì ngôi vạn này có kiến trúc cổ còn giữ nguyên trạng.
Vạn còn chứa nhiều hiện vật quý hiếm cũng như các tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu cho nghệ thuật chạm gỗ, đúc đồng, nặn tượng do bàn tay khéo léo của các nghệ nhân thế kỷ XVIII tạo nên. Có thể kể đến các hiện vật như: chuông đồng, tượng đất nung, khám thờ, hương án, bao lam, thành vọng, hoành phi, liễn đối… có từ những thế kỷ trước, hàm chứa nhiều nội dung thông tin cần thiết cho nhiều ngành khoa học.
Điều đáng quan tâm là: Các lăng vạn ở vùng biển Bình Thuận đều có Sắc phong thần của các vua thuộc triều đình nhà Nguyễn. Ở Vạn Thủy Tú còn lưu giữ 24 sắc phong, lâu nhất là sắc phong đời vua Thiệu Trị (1841). Nội dung các sắc phong về thời điểm, địa danh làng vạn có khác nhau nhưng đều có chung một nội dung là: Phong cá Ông với các thần danh như: Đông Hải cự tộc ngọc lân tôn thần, Nam Hải Đại Nam Tướng Quân.
Trong đó có một bộ xương cá Voi xám, vừa được phục chế với sự giúp đỡ của Viện Hải dương học Nha Trang vào giữa năm 2003, có chiều dài 22 m, ước tính khi cá còn sống có trọng lượng khoảng 65 tấn. Cho đến nay, bộ xương này có niên đại sớm nhất, lớn nhất và duy nhất (do con người lưu giữ và bảo quản chứ không phải do khai quật khảo cổ học). Ngoài ra trong vạn còn lưu giữ hơn 100 bộ xương cốt cá voi và các loài cá lạ khác, không ít các bộ xương của những con rùa da khổng lồ. Đây là một lợi thế mà chúng ta cần tận dụng trong việc thu hút khách du lịch đến các làng biển.
Nơi lưu giữ di sản văn hóa phi vật thể
Ngoài các giá trị của kiến trúc cổ theo lối dân gian, ở di tích này còn chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa phi vật thể. Điều đáng nói ở đây là sau gần 250 năm, các loại hình văn hóa phi vật thể gần như còn nguyên vẹn với các yếu tố nguyên gốc. Vạn Thủy Tú, nơi đó còn lưu giữ lại những truyền thuyết về cá Thần mà ngư dân miền biển thường đồn đại. Cá Thần được ngư dân làm nghề biển gọi bằng nhiều tên khác nhau như: Ông Nam Hải, Ông Chuông, Ông Lộng, Ông Khơi… Người ta cho rằng, "Ông" do thần thánh nào đó hiện thân, hoặc vì cứu giúp thuyền bè nào đó ngoài khơi phải hy sinh để bảo vệ tính mạng cho loài người, hoặc do Ngọc Hoàng, Long Vương sai ghé vào bờ giúp đỡ dân làng bị hoạn nạn trên biển.
Ở các làng ngư ven biển Bình Thuận và một số nơi ở vùng biển Trung Bộ, còn có truyền thuyết về cá Voi như sau: "Xưa kia đức Phật Quan Âm trong tuần Du Đại Hải, ngậm ngùi đau xót cho số phận của người trần chết trận chìm ngoài biển khơi, nên xé chiếc áo cà sa làm muôn ngàn mảnh thả trên mặt biển làm phép thành cá Ông,
lấy bộ xương Voi ban cho để cá có thân hình to lớn, lại ban cho phép Thâu đường để lội thật mau hầu làm tròn trách nhiệm cứu vớt người lâm nạn…"
Trong nhận thức của ngư dân về sự tồn vinh và biết ơn cá Voi, từ một loài cá ngoài biển khơi, quá trình nhận thức và huyền thoại hóa đã diễn ra, để cá Voi trở thành vật thiêng. Những câu chuyện trên đây đều ít nhiều nhuốm màu truyền thuyết, huyền hoặc thể hiện niềm tin tưởng tuyệt đối của người dân chài vào loài vật có ích. Cá Voi, một sinh vật có ích đã được nhân cách hóa thành một đấng cứu độ nhân thế, một sinh vật hiền và thiêng giúp con người vượt ra khỏi tai nạn, vì thế được ngư dân miền biển biết ơn, tôn sùng không những lúc sống mà cả lúc chết.
Vạn Thủy Tú được mọi người biết đến không phải chỉ có những giá trị thuộc về kiến trúc và văn hóa nghệ thuật. Nó còn là ngôi nhà chung của cả cộng đồng ngư dân và nhân dân ở đây, là niềm tin thiêng liêng ăn sâu vào ký ức tâm linh của mọi người.
Để bảo vệ ngôi vạn và duy trì những nghi thức, luật lệ đã có ở Vạn, ngay từ thế kỷ trước đã có hương ước của làng và đến đầu thế kỷ này (qua tài liệu còn lưu giữ ở vạn) đã có nội quy phát triển từ hương ước của làng về kế tục tín ngưỡng, thời gian tổ chức lễ hội hàng năm, đến việc đóng góp, tu bổ… tinh thần tương thân, ái hữu doàn kết.
Tuy nhiên, trong nhiều yếu tố cơ bản cấu thành nội dung ở Vạn Thủy Tú, cái cốt lõi chính là văn hóa truyền thống, văn hóa dân gian ở vùng biển được hun đúc và cô đọng tại đây. Vấn đề đáng lưu ý hiện nay ở Vạn Thủy Tú là phải bảo quản, giữ gìn kiến trúc dân gian cũ. Vì đây là ngôi vạn còn sót lại khi xung quanh đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế và quá trình đô thị hóa nhanh dẫn đến hiện tượng những ngôi nhà cổ, những ngôi chùa, vạn bị hủy hoại hoặc đập phá đi để xây dựng cao to hơn, để rồi mất đi giá trị lịch sử, kiến trúc dân gian buổi đầu tạo dựng.
Sau nhiều lần nhân dân địa phương góp tiền của trùng tu, chắp vá không đồng bộ, từ năm 2003, UBND tỉnh đã có chủ trương cho ngành Văn hóa Thông tin tiến hành lập dự án trùng tu, tôn tạo di tích Vạn Thủy Tú để bảo tồn giá trị của di tích và phục vụ việc tham quan, nghiên cứu và du lịch. Đến nay, dự án đã hoàn thành với tổng giá trị trên 600 triệu đồng. Hiện đơn vị thi công đang phối hợp với nhân dân địa phương chuẩn bị cho việc trùng tu, tôn tạo. Dự kiến đến trước Tết nguyên đán, di tích Vạn Thủy Tú sẽ trùng tu xong, kịp để nhân dân địa phương thực hiện lễ nghi hàng năm và để cho du khách thăm viếng. Trước mắt là điểm tham quan du lịch phục vụ Lễ hội du lịch Bình Thuận- Hội tụ xanh được nhiều người quan tâm.